THÔNG BÁO !

Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người

TM Ban Điều Hành Blog

03 December 2012

Thủy điện Việt Nam đi “ngược chiều” thế giới

Vì tránh gia tăng thêm chi phí, các nhà đầu tư đã cố tình bỏ quên thiết kế âu tàu cho các dự án thủy điện.
Thủy điện Việt Nam đi “ngược chiều” thế giới
Khi thiết kế thủy điện Hòa Bình, các chuyên gia Liên Xô đã đặt vấn đề làm âu tàu, nhưng sau đó Việt Nam bỏ qua hạng mục này - Ảnh: Ngọc Thắng
Cắt đứt giao thông thủy
Trên thế giới, âu tàu là giải pháp tối ưu tại những chỗ có độ dốc dòng chảy lớn bị ngăn lại bởi các đập thủy điện. Theo TS Bùi Trung Dung, Cục phó Cục Giám định nhà nước về chất lượng công trình xây dựng (Bộ Xây dựng), các đập thủy điện trên thế giới đều thiết kế thêm bộ phận âu tàu tại hông bên trái hoặc bên phải của đập để tàu thuyền vẫn có thể đi lại. Thủy điện lớn nhất thế giới tính đến thời điểm này là đập Tam Hiệp (Trung Quốc) cũng thiết kế một âu tàu 5 cấp.

Âu tàu là khoảng không gian trên sông, biển hoặc kênh đào với hai bên là vách ngăn, hai đầu là các cửa để tàu thuyền có thể ra vào trong đó và nổi lên hoặc hạ xuống theo các mức nước khác nhau. Sau khi tàu thuyền đi vào qua một cửa, cửa đó được đóng lại. Một lượng nước thích hợp được bơm vào để mực nước bên trong tương đương với bên ngoài. Khi mực nước đã cân bằng, cửa thứ hai được mở và tàu đi ra. Một trong những âu tàu nổi tiếng thế giới là âu tàu ở Panama và tàu đi qua kênh đào này theo phương pháp nói trên. Thuật ngữ này còn gọi là “lock”.
Nhưng ở Việt Nam, bộ phận quan trọng này lại bị cố tình bỏ quên. Nói cố tình là bởi, cách đây 30 năm khi làm thủy điện Hòa Bình, các chuyên gia Liên Xô đã đặt vấn đề thiết kế âu tàu, nhưng, theo TS Dung, để tiết kiệm chi phí nên Việt Nam đã bỏ qua hạng mục này. Sau đó, các thủy điện đều cố tình “lãng quên” âu tàu trong thiết kế.
Theo PGS-TS Nguyễn Văn Giáp, bộ môn Cảng - đường thủy ĐH Xây dựng, Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc với mật độ lớn vào bậc nhất thế giới (2-4 km/km2), với 40.900 km sông kênh có thể khai thác cho giao thông thủy nội địa. Trong khi các thủy điện lớn đều nằm dọc theo các tuyến sông lớn như sông Đà, sông Chảy, sông Gấm, sông Cả, sông Chu, sông Mã, sông Ba, sông Đồng Nai... có tiềm năng rất lớn để khai thác giao thông thủy trong tương lai. “Rõ ràng đắp đập làm thủy điện, cột nước được tăng, song lại không có âu qua đập đã tạo ra nghịch cảnh trớ trêu, cắt đứt giao thông thủy xuyên suốt trên dòng sông, khiến nhiều tỉnh miền núi mãi không có một mạng lưới giao thông thủy”, TS Giáp nhìn nhận.
Còn theo TS Bùi Trung Dung, hơn 6.000 đập lớn nhỏ trên cả nước, đều không có âu tàu để khai thác vận tải đường thủy và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. “Gần đây nhất là Nhà máy thủy điện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) chỉ sử dụng cột nước cao 7 m để phát điện. Các tổ máy phát điện nằm ngay tại lòng sông đã cắt đứt một dòng sông. Điều đáng ngạc nhiên là vận tải đường sông và nguồn lợi thủy sản ở đây là nguồn sống duy nhất của những người dân rất nghèo, vậy mà lãnh đạo địa phương vẫn không hề hay biết? Các cơ quan nhà nước khi đánh giá tác động môi trường cũng không biết? Thiệt hại này chắc chắn sẽ không nằm trong phương án đền bù của các cấp chính quyền”, ông Dung nêu vấn đề.
Tương lai gánh hậu quả

Dày đặc thủy điện trên sông
Theo một khảo sát, chỉ riêng sông Vu Gia - Thu Bồn có tới 10 bậc thang thủy điện lớn nhỏ; sông Kôn, A Vương có 7 bậc thang thủy điện. Lưu vực sông Đồng Nai có khoảng 20 dự án thủy điện lớn và vừa, chưa tính các thủy điện nhỏ, siêu nhỏ do các địa phương tự duyệt quy hoạch như sông Đồng Nai có 9 thủy điện, sông La Ngà có 5 thủy điện và sông Bé có 6 thủy điện. Sông Ba cũng bị chia cắt bởi 7 công trình thủy điện cỡ vừa...
Dẫn lại câu chuyện nước Mỹ đã phải phá hủy một đập thủy điện, vì công trình này khiến giống cá hồi không đi ngược lên được, TS Bùi Trung Dung nhấn mạnh phát triển bền vững thủy điện không chỉ là việc quy hoạch, cắt giảm các dự án lấy nhiều đất rừng, gây tác động lớn đến môi trường, mà quan trọng hơn là các sai lầm nghiêm trọng trong vấn đề thông dòng chảy của các con sông cần được khắc phục ngay. Không thể để các chủ đầu tư vì sợ tốn tiền làm âu tàu mà người dân và đất nước phải gánh chịu hậu quả về lâu dài trong tương lai.
Theo PGS-TS Nguyễn Văn Giáp, đúng ra các thủy điện lớn bắt buộc phải làm âu tàu, nhưng việc này đã không được lãnh đạo Bộ Công thương, Bộ NN-PTNT, Bộ Xây dựng cũng như cơ quan tư vấn thiết kế quan tâm. Vì vậy, tất cả các thủy điện lớn, vừa xây dựng mới cần phải bổ sung thêm phần thiết kế và xây dựng âu tàu. Với các thủy điện đã xây dựng, việc khắc phục làm thêm âu tàu, có thể cải hoán thêm vào hông bên trái hoặc hông bên phải của đập thủy điện, chi phí làm cũng không cao so với chi phí làm đập, nhà máy. Ngoài ra, với 40.900 km đường sông tự nhiên, chưa được nối với nhau cũng cần phải có hệ thống âu tàu để lưu thông từ sông nọ sang sông kia.
Mai Hà